Tổng quan
Văn minh phương Tây có truyền thống giáo dục theo tinh thần tự do từ lâu đời, ở đó kiến thức tổng quát, sự hiểu biết và tôn trọng ý kiến của người khác được coi là điểm nhấn của toàn bộ sự phát triển cá nhân trong đó có việc đào tạo nghề nghiệp. Tư tưởng này có lẽ đã bắt đầu từ Hy lạp cổ đại và ngày càng trở nên rõ ràng hơn đối với ba khoa là ngữ pháp, tu từ và logic, và sau này là tứ khoa dạy ở nhà trường trung cổ: số học, hình học, thiên văn và âm nhạc. Truyền thống này vẫn tiếp tục đến ngày nay và hiện nay giáo dục tri thức tổng quát theo tinh thần trên vẫn là một thành tố quan trọng của giáo dục đại học ở tất cả các quốc gia phát triển. Vai trò của nó trong việc tạo nên các nhà lãnh đạo và những công dân ưu tú thể hiện rất rõ trong lãnh vực nhà nước cũng như tư nhân. Khó lòng có được một số liệu thống kê có tính toàn cầu, nhưng ấn tượng dễ thấy là mối quan tâm đối với chương trình giáo dục tri thức tổng quát đang phát triển mạnh ở phương Tây.
Có thể thấy rõ sự tương phản ở các quốc gia đang phát triển. Nhất là từ sau thế chiến thứ hai, khi những quốc gia này giành được độc lập thì giáo dục tri thức tổng quát trở thành một cái gì được coi là xa xỉ và không cần thiết. Điều đó được phản ánh trong chương trình của cả giáo dục phổ thông lẫn giáo dục đại học, nơi mà việc đào tạo nghề nghiệp thường được coi trọng hơn. Nhà nước tránh xa chương trình giáo dục tri thức tổng quát, coi đó như sản phẩm của những kẻ coi mình là ưu việt, biểu tượng cho những giá trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây đang bị thù ghét, và để có nó, ắt là phải trả một giá đắt. Chỉ đến thời gian rất gần đây mới có những dấu hiệu cho thấy là thái độ đó đang thay đổi, nhưng nhận thức về lợi ích của chương trình giáo dục tri thức tổng quát vẫn còn là điều còn xa mới có thể trở thành phổ biến.
Bài viết này sẽ trình bày vai trò sống còn của giáo dục tri thức tổng quát đối với các trường đại học và cao đẳng ở các quốc gia đang phát triển – cả trong chương trình đào tạo đại học lẫn sau đại học. Những điều chúng tôi trình bày sau đây là sự suy xét dựa trên kết quả nghiên cứu và quan sát ở nhiều quốc gia khác nhau. Tất nhiên chúng ta phải hiểu rằng mỗi quốc gia là một trường hợp cụ thể và không thể đưa ra những chứng minh đúng cho tất cả mọi trường hợp. Tuy vậy chúng tôi tin rằng những nhận định này là dựa trên cơ sở lịch sử và logic.
Chương trình giáo dục tri thức tổng quát ở các quốc gia đang phát triển
Như đã được trích dẫn trong một bản báo cáo gần đây về Nhiệm vụ của Giáo dục đại học và xã hội (2000)- một văn bản nêu ra hiện trạng và tương lai của giáo dục đại học trong các quốc gia đang phát triển-, một người được giáo dục trong tinh thần tự do là:
- người có thể suy nghĩ và sử dụng ngôn ngữ viết một cách rõ ràng, có hiệu quả, một cách có phê phán, có thể dùng ngôn ngữ để giao tiếp với sự sâu sắc và có sức mạnh thuyết phục.
- người có một sự đánh giá có tính chất phê phán đối với cái cách mà chúng ta tiếp nhận kiến thức và sự hiểu biết về tự nhiên, về xã hội, và về bản thân chúng ta,
- người có một kiến thức rộng rãi về các nền văn hóa và các thời đại, có khả năng quyết định trên cơ sở một thế giới quan rộng lớn và sự hiểu biết về những sức mạnh lịch sử chi phối cuộc sống của chúng ta,
- người có hiểu biết và từng trải trong việc suy nghĩ một cách hệ thống về những vấn đề đạo đức và lương tâm.
- người đạt được chiều sâu trong một vài lĩnh vực nào đó của tri thức.
Trong các quốc gia đang phát triển, những người có các phẩm chất nêu trên thường là những người xuất thân từ tầng lớp giàu có thượng lưu. Điều này ngày nay trở nên không còn hoàn toàn đúng ở phương Tây bởi vì nền giáo dục trên tinh thần tự do như thế đã được mở rộng không phải chỉ ở một số các trường đại học có tính chọn lọc như trước nữa. Chẳng hạn như ở nước Mỹ con số và tỉ lệ tốt nghiệp đại học hàng năm đã giảm bớt và rồi tăng trở lại trong vòng ba mươi năm qua.
Ở một số quốc gia đang phát triển, nhu cầu nhân lực gia tăng do công nghiệp hóa đã làm chậm lại quá trình lan rộng của chương trình giáo dục tri thức tổng quát. Thay vì cung cấp cho học sinh một nền tảng giáo dục chung rộng rãi, hệ thống giáo dục đại học Xôviết đã quá tập trung vào việc dạy những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp. Với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp Xô viết từ những năm 1930, kiểu đào tạo nghề nghiệp như vậy lan rộng trước hết ở những nước cộng hòa không phải là nước Nga, rồi sau đó tiếp tục phát triển ngoài mặt trận. Nhà chính trị và triết gia Irakly Areshidze (1999) đã nhận định: "Sau khi được nhận vào trường đại học, trong năm năm tiếp theo sinh viên sẽ đeo đuổi một nền giáo dục tập trung vào việc đem lại cho họ những tri thức cụ thể và có giới hạn về một lãnh vực nghề nghiệp nào đó. Sinh viên sẽ học thuộc lòng thông tin trong sách giáo khoa và bài giảng của các giáo sư. Hiếm khi nào họ cảm thấy cần phải suy nghĩ một cách có phân tích, có phê phán và hiếm khi họ tiến hành thảo luận lớp hoặc viết bài."
Trong nhiều quốc gia đang phát triển, sự thiếu hụt tư duy phê phán đã từng được chính họ đề cập từ lâu. Như Lão Tử đã nói cách đây 2500 năm:"Con người khó cai trị vì họ có quá nhiều tri thức". Những kẻ cầm quyền của chủ nghĩa thực dân cũng hiểu rất rõ rằng vì sự tồn tại của chính mình, họ cần đầu tư cho đào tạo nghề nghiệp hơn là cho một nền giáo dục tự do.
Chính sách tài trợ cũng tiếp tay cho việc tập trung vào đào tạo nghề nghiệp. Những tổ chức như Ngân hàng Thế giới có truyền thống khuyến khích phát triển cơ sở hạ tầng và những tổ chức lớn mạnh như là trọng tâm của phát triển. Điều đó tất nhiên đòi hỏi phải có những công nhân lành nghề. Xây dựng hạ tầng đòi hỏi phải có những kỹ sư giỏi, xây dựng một hệ thống tài chính lành mạnh cần có những nhân viên, kế toán viên được trang bị đủ kiến thức chuyên môn, cũng như xây dựng một hệ thống y tế thì phải có những người được đào tạo về kiến thức y khoa hiện đại. Cho nên không có gì đáng ngạc nhiên khi hệ thống giáo dục đại học ở các quốc gia đang phát triển quá chú trọng đến những mục tiêu cụ thể trong việc tạo ra những người có thể sẵn sàng tham gia ngay vào thị trường lao động.
Có những lý do quan trọng khác khiến các gia đình muốn gửi con em đến những trường tập trung hơn vào việc đào tạo kỹ năng nghề nghiệp. Đầu tư cho giáo dục đại học, cả theo nghĩa chi phí trực tiếp và chi phí tạo ra cơ hội, là cả một vấn đề đối với nhiều gia đình ở các quốc gia nghèo. Cho dù học phí có được miễn thì cái gánh nặng chi phí về tiền ăn ở, tiền sách vở tài liệu phải chi trả trong lúc đứa con đã có thể kiếm ra được tiền cho gia đình là một sự hy sinh vô cùng to lớn. Bởi vậy sự mong muốn lấy lại thật nhanh số tiền đã đầu tư là điều có thể hiểu được, và những khóa học nghiệp vụ thường được coi như cung cấp một cơ hội thu hồi vốn nhanh hơn và chắc chắn hơn so với một chương trình giáo dục tri thức tổng quát.
Nhu cầu về chương trình giáo dục tri thức tổng quát
Bằng cách dạy cho sinh viên how to think (cách suy nghĩ) hơn là what to think (nội dung suy nghĩ), how to learn (cách học) hơn là what to learn (nội dung học), chương trình giáo dục tri thức tổng quát tạo ra những người có thể thích nghi và đáp ứng tốt hơn yêu cầu của một nền kinh tế và môi trường xã hội đang thay đổi nhanh chóng. Trong cơn lốc đáp ứng cho một xã hội thay đổi quá nhanh, người ta rất dễ bỏ sót những mục tiêu dài hạn. Có quan điểm cho rằng một người kỹ sư chỉ nên học những phần việc kỹ thuật trong nghề nghiệp của họ, không cần chú ý tới những nhân tố xã hội và môi trường trong công việc của họ. Kỹ năng thiết kế và bảo trì cầu đường rõ ràng là điều thiết yếu đối với mọi quốc gia, nhưng nếu những người lập kế hoạch và hoạch định chính sách không nhận biết được hay là không tính đến quan điểm của cư dân địa phương thì những tác động xã hội tiêu cực của dự án sẽ là không sao lường được, thậm chí có thể đe dọa những kết quả kinh tế tích cực. Một ví dụ khác, thực phẩm biến đổi gen đã tạo ra nhu cầu khổng lồ và ngày càng gia tăng đối với các chuyên viên kỹ thuật ở các quốc gia đang phát triển. Những chuyên gia này rất cần thiết nếu như các quốc gia trên biết tận dụng lợi ích của loại thực phẩm này (về mặt dinh dưỡng, sức khỏe, và giá cả) trong khi tìm cách giảm thiểu rủi ro (sự xâm lấn giống loài, những căn bệnh mới chưa có thuốc điều trị của người, vật nuôi và cây trồng..., và sự phụ thuộc của các quốc gia đang phát triển vào những nhà cung cấp giống trong các quốc gia phát triển). Thực phẩm biến đổi gen cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp ngoài khoa học, như là những vấn đề liên quan đến đạo đức, quy tắc xã hội, thực tiễn công việc, đời sống cộng đồng, quá trình toàn cầu hóa và sự thống trị thế giới. Khó mà hình dung được các quốc gia đang phát triển có thể giải quyết vấn đề này một cách hiệu quả mà không có sự lãnh đạo của những cá nhân được tiếp thụ tinh thần của nền giáo dục tự do.
Đối với tầng lớp thu nhập cao những lợi ích của chương trình giáo dục tri thức tổng quát là hiển nhiên và chủ yếu là đối với cá nhân những người được tiếp nhận nền giáo dục này. Nhưng chương trình giáo dục tri thức tổng quát cũng mang lại những lợi ích hiển nhiên đối với những thành viên khác của cộng đồng xã hội. Mặc dù khó lòng đưa ra được những sự kiện khẳng định tuyệt đối, chúng ta cũng có thể nhận định về những điều chủ yếu mà những chương trình giáo dục tri thức tổng quát có thể đem lại cho xã hội.
Trước hết là về kinh tế. Chúng ta nghĩ rằng các nhà lãnh đạo có khả năng cải cách nhiều hơn khi họ bị khích động bởi một phạm vi rộng rãi các ngành học được bao gồm trong chương trình giáo dục tri thức tổng quát. Đối với các nền kinh tế đang phát triển, những cải cách như vậy có thể có ý nghĩa như một sự dịch chuyển đến những lãnh vực mới và có sức sản sinh cao, và thích nghi với kỹ thuật cao là để tạo ra nhiều cơ hội việc làm và giảm bớt tình trạng nghèo đói trong nước. Chương trình giáo dục tri thức tổng quát khuyến khích người ta đặt câu hỏi, thử thách cách nghĩ thông thường, và điều đó có thể là một chất xúc tác quan trọng cho việc gia tăng dòng chảy kinh tế. Hơn nữa, chương trình giáo dục tri thức tổng quát còn nâng cao những giá trị mà xã hội thừa nhận như những phẩm chất xứng đáng, đối lập với địa vị hoặc sự giàu có được thừa hưởng từ gia đình. Trong nhiều quốc gia đang phát triển, sự lạm quyền của những kẻ cầm quyền trong việc ưu đãi công ăn việc làm và chức quyền cho bà con thân thuộc của mình có thể cản trở công cuộc phát triển kinh tế.
Hai là những nhân tố có liên quan đến việc hoạch định chính sách. Không làm gì có một công thức chuẩn cho mục tiêu phát triển, nhưng rất nhiều sự kiện thực tế đã cho thấy là trình độ cao về quản lý nhà nước và quản lý kinh tế vĩ mô, cùng với sự quan tâm thích đáng đến giáo dục và y tế, cũng như sự hội nhập với nền kinh tế thế giới bao giờ cũng là những nhân tố đắc dụng. Tất cả những công cụ này của việc phát triển – đôi khi chúng không chỉ là công cụ mà còn là mục đích, chẳng hạn như đối với giáo dục và y tế- đều đòi hỏi những kiến thức và kỹ năng tổng quát cũng như chuyên ngành.
Tác động của giáo dục tri thức tổng quát trong việc tham gia chính trị là khả năng thứ ba đối với lợi ích của cộng đồng. Các nhà lãnh đạo tài giỏi có thể đưa đất nước tiến lên, nhưng một cộng đồng công dân gồm những người nắm được đầy đủ thông tin và có mối liên hệ gắn bó với lợi ích chung của đất nước bao giờ cũng là một lực lượng đối trọng có tính chất xây dựng và hết sức cần thiết đối với quyền lực của các nhà lãnh đạo. Một nền dân chủ tiêu biểu, nhân tố có đóng góp hết sức quan trọng cho quá trình phát triển kinh tế và xã hội lâu dài ở phương Tây, tùy thuộc chủ yếu vào số đông công dân có tinh thần phê phán – những người được thông tin đầy đủ, có khả năng tiêu hóa và làm việc với những tư tưởng phức hợp. Bằng cách phổ biến kiến thức và khuyến khích tranh luận, sự mở rộng chương trình giáo dục tri thức tổng quát ra ngoài phạm vi của những nhóm người ưu tú sẽ dẫn tới một cộng đồng công dân gắn bó nhiều hơn với những vấn đề chung của xã hội và đất nước.
Bốn là ảnh hưởng đối với sức mạnh cố kết của xã hội. Bằng cách đặt người học trước những quan điểm hết sức khác nhau và khuyến khích họ liên kết những nền văn hóa và những lãnh vực chuyên biệt khác nhau, chúng ta hy vọng rằng chương trình giáo dục tri thức tổng quát có thể giúp phát triển sự khoan dung và hiểu biết giữa người và người. Chương trình giáo dục tri thức tổng quát cũng có thể thúc đẩy ý thức cộng đồng và tinh thần hợp tác trong công việc để đạt được một mục tiêu chung. Bằng cách mở rộng và đào sâu kiến thức về lịch sử, nghệ thuật và khoa học, nó khuyến khích niềm tự hào của chúng ta về nền văn hóa của chính mình cũng như khuyến khích sự tôn trọng những nền văn hóa khác. Giáo dục trên tinh thần tự do, bởi vậy có một ảnh hưởng mạnh mẽ đối với tinh thần của công chúng, điều mà những quốc gia phát triển và cả những quốc gia đang phát triển đều đòi hỏi như nhau khi cùng làm việc để nắm bắt cơ hội và giải quyết những vấn đề đang tồn tại.
Năm là chương trình giáo dục tri thức tổng quát có thể góp phần ngăn chặn khả năng chảy máu chất xám. Những người có cơ hội thụ hưởng một nền giáo dục chất lượng cao và được xây dựng trên một nền tảng rộng rãi phóng khoáng ở đất nước mình thì có nhiều khả năng là sẽ theo đuổi việc học tập trong nước thay vì phải chi phí tốn kém cho việc học tập ở nước ngoài. Điều này có thể mang lại một lợi thế bổ sung cho phụ nữ, những người không được gia đình sẵn lòng cho đi học ở nước ngoài. Tương tự như vậy, những người học ở nước ngoài sẽ có nhiều khả năng quay về nếu họ biết rằng họ có thể tìm được một môi trường làm việc thích hợp. Một lợi ích liên quan khác là chương trình giáo dục tự do cổ vũ văn hóa học tập suốt đời, điều này tiếp sức cho sự phát triển mạnh mẽ của văn hóa tri thức và khuyến khích sự đào tạo chuyên môn ở nước ngoài nhằm phục vụ cho công việc ở trong nước vì lợi ích của chính đất nước mình.
Cuối cùng là vấn đề toàn cầu hóa. Chúng ta tin rằng giáo dục tri thức tổng quát trên tinh thần tự do thúc đẩy sự liên kết không chỉ trong phạm vi một xã hội mà còn giữa xã hội này và xã hội khác. Chẳng hạn như việc nghiên cứu về các tôn giáo trên thế giới có thể giúp người học thấy được mối quan hệ giữa các tôn giáo trong cùng một thời điểm cũng như có thể hiểu biết và đánh giá đúng sự khác biệt của các tôn giáo ấy. Văn học, lịch sử và ngôn ngữ có thể cho thấy ánh sáng quá khứ của một đất nước cũng như phản ánh cách nghĩ hiện tại của một dân tộc. Trong một thế giới ngày càng gia tăng nhiều mối liên hệ, sự cảm thông với những nền văn hóa khác có thể thúc đẩy những quan hệ hòa bình và tạo ra những quan hệ giao tiếp văn hóa cũng như quan hệ kinh doanh có hiệu quả.
Toàn cầu hóa cũng tạo ra sự thay đổi không khí kinh tế. Trao đổi thương mại giữa các quốc gia khiến nhiều nền kinh tế có khả năng dịch chuyển tới những vùng đất mới. Sự phát triển kinh tế thành công thường đi cùng với một loạt các giá trị công nghiệp. Đào tạo chuyên gia trong những lĩnh vực cụ thể, do đó nhanh chóng trở thành lỗi thời, và khi nghề nghiệp của mỗi người trở thành một cái gì luôn luôn biến đổi và đòi hỏi nhiều kỹ năng linh hoạt thì khả năng học tập mau lẹ những kỹ năng mới trở thành một yêu cầu bức thiết. Kỹ thuật phát triển quá nhanh khiến yêu cầu này càng gia tăng mạnh mẽ. Kiến thức trở thành ưu thế cạnh tranh đối với mỗi cá nhân cũng như đối với mỗi nền kinh tế, và những kỹ năng tổng quát được nền giáo dục tổng quát khuyến khích phát triển sẽ tạo ra thế cân bằng với sự tăng trưởng những giá trị liên quan tới những năng lực cụ thể.
Đi cùng với xu hướng hội nhập toàn cầu là những phương thức làm việc mới. Sự gia tăng số lượng kiến thức có nghĩa là, như Michael Gibbons (1998) nhận định, bất kể bạn đang ở đâu, hơn 99% kiến thức mà bạn cần đến đang nằm đâu đó ở một nơi nào khác. Bởi vậy những liên hệ mới phải được xây dựng thông qua các ngành kiến thức và thông qua văn hóa. Mạng liên kết các chuyên gia, nơi mà các cuộc tranh luận sôi sùng sục như chảo dầu nóng, là một nguồn tri thức không ngừng biến đổi thúc đẩy nền kinh tế tiến về phía trước. Cách nghĩ và cách làm việc như vậy là đặc điểm chủ yếu của chương trình giáo dục tri thức tổng quát, một chương trình giáo dục khuyến khích người học xây dựng những mối liên hệ thông qua các lĩnh vực kiến thức khác nhau và rút tỉa từ tư tưởng của người khác trong quá trình cùng làm việc để nâng cao trình độ và giải quyết vấn đề.
Chúng ta hiểu rằng mối liên hệ giữa lợi ích của cá nhân và lợi ích của xã hội được gán cho những nhân tố của giáo dục tổng quát trên đây là sự pha trộn giữa hy vọng và thực tế. Có thể còn nhiều cơ hội chưa được khám phá, và một nền giáo dục hoàn hảo tự nó không thể tránh khỏi tất cả mọi loại tác động không hay. Tuy vậy những nhân tố trên đây cũng đã phản ánh những khả năng và những gì đã xảy ra trong những xã hội khác nhau khi những xã hội này chuyển từ nghèo đói đến giàu mạnh.
Phát triển nền giáo dục tổng quát
Có rất nhiều câu hỏi quan trọng được đặt ra khi người ta thử thiết kế một chương trình giáo dục tri thức tổng quát cho các quốc gia đang phát triển.
Câu hỏi đầu tiên là dạy cái gì. Chương trình giáo dục tri thức tổng quát ở phương Tây đã tiến triển qua nhiều thời kỳ để đạt đến sự lựa chọn trên một nền tảng rộng rãi, phóng khoáng, gồm các bộ môn lịch sử, chính trị, văn học, ngôn ngữ và sinh học. Những quốc gia đang phát triển có một cơ hội quý báu để học hỏi từ kinh nghiệm của phương Tây, nhưng đồng thời cũng cần lưu ý đến đặc điểm của môi trường chính trị, xã hội, và kinh tế của mình. Ủy ban Phát triển Nông thôn của Bangladesh (BRAC) vừa thành lập một trường đại học được xây dựng trên nguyên tắc của chương trình giáo dục tri thức tổng quát và điều này đã phản ánh nhu cầu và khát vọng của xã hội Bangladesh qua việc tạo ra một tầng lớp trí thức- những người sẽ làm việc để giúp cho đất nước mình giảm bớt nghèo đói và vượt qua hàng loạt khó khăn trong vấn đề chăm sóc sức khỏe, giáo dục và việc làm. Báo cáo về Nhiệm vụ của Giáo dục Đại học năm 2000 của Bangladesh nêu tóm tắt chiến lược của họ trong việc thiết kế chương trình giáo dục tri thức tổng quát là như sau:
Bắt đầu bằng một chương trình nghiên cứu quy mô phát động trong số các cán bộ nhân viên, sinh viên và phụ huynh tiềm năng của nhà trường, cũng như trong số các trường đại học có nhiều thành tựu nổi bật của địa phương, BRAC muốn bảo đảm không chỉ khả năng đứng vững về tài chính thông qua số lượng sinh viên nhập học ban đầu mà còn là sức thu hút đối với những người sử dụng lao động ở địa phương, được chứng minh bằng dòng chảy của sinh viên tốt nghiệp hàng năm. Điều này tiếp tục có tác dụng trở lại đối với việc duy trì và phát triển số lượng sinh viên nhập học.
Những nghiên cứu của BRAC đã cho thấy là những người sử dụng lao động tìm kiếm những sinh viên tốt nghiệp có khả năng phân tích và kỹ năng viết tốt, biết sử dụng tiếng Anh và có khả năng giao tiếp tốt. Khả năng suy nghĩ độc lập và có sáng kiến trong khi thực hiện nhiệm vụ cũng được đánh giá cao. BRAC nhận ra rằng mối liên hệ với những người có vai trò trọng yếu ở địa phương trong quá trình thiết kế chương trình học có lẽ là cách tốt nhất để phát huy tối đa lợi ích mà nhà trường có thể đem lại cho xã hội. Kiên trì với kiểu mẫu của chương trình giáo dục tri thức tổng quát, BRAC yêu cầu mọi sinh viên theo đuổi những chủ đề học tập đa dạng bao gồm cả những khóa học quan trọng ngoài lĩnh vực chuyên môn hẹp của mình.
Nội dung của chương trình giáo dục tri thức tổng quát tất nhiên là có khác nhau ở những quốc gia khác nhau. Mỗi quốc gia cần tiếp thu bài học của những nơi khác và điều chỉnh nó để thích hợp với nhu cầu của chính mình. Chẳng hạn Nam Phi, nơi tiếng Anh được sử dụng rộng rãi, có thể không cần những khóa đào tạo về tiếng Anh như là ở Hàn Quốc, mà cần đặc biệt tập trung vào nhu cầu của đất nước trong việc xây dựng những tổ chức vững mạnh. Do vậy mà những môn như luật, triết học, kinh tế, và chính trị sẽ có một ý nghĩa quan trọng hơn. Việc thiết kế một chương trình giáo dục có tính tổng quát trên tinh thần tự do tạo cơ hội đưa ra những câu hỏi cơ bản như là vấn đề gì đang đặt ra đối với một xã hội cụ thể. Nó cũng tạo cơ hội tập trung vào lịch sử, văn hóa, và những giá trị của mỗi quốc gia. Thực hiện tất cả những điều này sẽ giúp tiếp thêm sinh lực cho toàn bộ hệ thống giáo dục đại học, và đồng thời có thể làm thay đổi cách nghĩ của xã hội về chính bản thân nó.
Một khi đã xác định được dạy cái gì, các nhà giáo dục cần phải quyết định dạy như thế nào. Kiểu học thuộc lòng thụ động tiêu biểu cho giáo dục đại học ở các quốc gia đang phát triển khiến vấn đề này trở thành cực kỳ quan trọng. Những phương pháp giảng dạy mới yêu cầu người học có một vai trò chủ động hơn sẽ hết sức thích hợp với yêu cầu ngày càng gia tăng của cách làm việc cần có sự hợp tác và phối hợp trong một xã hội tri thức. Nền giáo dục tổng quát được vận hành một cách có hiệu quả có thể đem lại cho người học một cái khả năng khởi đầu bằng việc phát triển những kỹ năng cần thiết trong việc cùng làm việc với người khác để giải quyết vấn đề và đi đến một giải pháp.
Trong thực tế, việc tìm được những giảng viên đại học có thể tham dự vào quá trình học tập tương tác như thế là một trở ngại chính cho việc phát triển chương trình giáo dục kiến thức tổng quát ở các quốc gia đang phát triển, bởi truyền thống "học tập một cách có chủ định" ("intentional learning") ở đây quá mờ nhạt.
Cuộc cải cách sẽ chỉ có thể được thực hiện khi những nhân tố chính trị được tính đến một cách hoàn toàn thực tế. Những nhà hoạch định chính sách và những người có vai trò trọng yếu trong nền kinh tế và xã hội đều phải cùng nhận thức được rằng trong lúc những nhân tố sư phạm hiểu theo nghĩa hẹp và nhân tố kỹ thuật trong những cuộc cải cách như vậy là rất quan trọng, thì đó cũng mới chỉ là một phần của vấn đề. Điều quan trọng không kém là những mối quan tâm rộng rãi của sinh viên, phụ huynh và các nhà giáo dục ở mọi cấp, của các doanh nghiệp, các nhà tài trợ – nếu có nhóm nào trong số đó không quan tâm tới cuộc cải cách, sự thành công của nó có thể bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Câu hỏi thứ ba mà các nhà thiết kế chương trình phải trả lời, là làm cách nào để người học nhận thức được tinh thần của chương trình giáo dục tri thức tổng quát. Hiện nay, như chúng ta có thể thấy, việc đào tạo những lĩnh vực chuyên môn cụ thể đang có sức cám dỗ mạnh hơn nhiều so với những bộ môn có tính tổng quát hơn. Tranh thủ sự đồng tình và cộng tác của những người sử dụng lao động là một điểm then chốt để giải quyết vấn đề này. Chẳng hạn Trường Đại học Quốc gia Singapore đã tiến hành một chương trình giáo dục tri thức tổng quát mới cho một số sinh viên của mình, với một mục tiêu đầy tham vọng là những sinh viên này có thể sánh ngang với sinh viên của những trường đại học danh tiếng ở các quốc gia giàu có. Những nỗ lực này được sự ủng hộ của các công ty và doanh nghiệp địa phương, những người mà tuyên bố chính thức của họ về giá trị của các khóa học dĩ nhiên là có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với sinh viên và phụ huynh. Giá trị của chương trình giáo dục tri thức tổng quát tự nó khó lòng bắt nguồn từ xu hướng đào tạo kỹ thuật. Bởi vậy những nỗ lực phối hợp là hết sức cần thiết để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của giáo dục tri thức tổng quát đối với từng cá nhân và cả xã hội.
Vấn đề cuối cùng cần trình bày là phương tiện để thực hiện chương trình giáo dục tri thức tổng quát. Do tính chất bao gồm nhiều lãnh vực chuyên môn rộng rãi và tỉ lệ sinh viên/ giáo viên thấp, giáo dục tri thức tổng quát có xu hướng tương đối đắt đỏ đối với đào tạo nghề nghiệp cụ thể, cho nên ở các nước nghèo không phải ai cũng có điều kiện theo học đầy đủ các khóa học thiết kế trong chương trình này. Những trường đại học được xây dựng theo kiểu truyền thống trong cùng lãnh vực sẽ có thể cung cấp những chương trình chuyên sâu hơn, nhưng để chương trình giáo dục tri thức tổng quát có thể đóng góp tốt hơn cho xã hội, việc mở rộng những nhóm sinh viên ưu tú là hết sức cần thiết và quan trọng. Trường đại học tư Aga Khan (AKU) của Pakistan dùng một phần tài sản được hiến tặng của họ để cấp học bổng cho sinh viên nhằm mở rộng những khóa học về khoa học và nghệ thuật tổng quát cho những đối tượng không thuộc nhóm giàu có của xã hội.
Mặc dù rất khó khái quát hóa về đề tài này bởi vì hệ thống giáo dục chuyên nghiệp đang thay đổi trong một phạm vi rộng lớn, nhưng có thể nói việc xây dựng một nền tảng giáo dục tri thức tổng quát như một thành tố của những khóa học về chuyên môn và kỹ thuật là một cách đầy hứa hẹn để mở rộng phương tiện tiếp cận chương trình giáo dục tri thức tổng quát. Điều này giúp kéo dài việc học tập của các chuyên viên và đem lại cho họ một nền tảng tốt hơn để đương đầu với những đổi thay trong điều kiện kinh tế và xã hội cụ thể. Thúc đẩy và cổ vũ giáo dục tri thức tổng quát trong những khóa học chuyên môn còn có thể giúp sinh viên kết hợp chặt chẽ những mục tiêu xã hội rộng lớn vào quá trình tương tác giữa họ và những người làm việc ở những lãnh vực khác nhau trong đất nước mình, hơn nữa, cả hai xu hướng trên đều có thể được thực hiện đồng thời. Kiên trì với mục tiêu này, AKU tuyên bố rằng sinh viên tốt nghiệp từ khoa y của họ sẽ có đủ khả năng để "nắm giữ vai trò lãnh đạo trong những vấn đề có liên quan đến xã hội."
Hầu hết những quốc gia đang phát triển sẽ thấy không cần thiết mà cũng chẳng có khả năng thực hiện việc đưa chương trình giáo dục tri thức tổng quát vào tất cả các trường đại học và cao đẳng của mình. Thực ra, không phải tất cả, hoặc hầu hết sinh viên đều cần có một nền tảng tổng quát như vậy. Các quốc gia đang phát triển cần xây dựng một hệ thống giáo dục đại học gồm có nhiều kiểu loại trường khác nhau nhằm phục vụ cho những mục đích khác nhau, và một số trường sẽ vận dụng đôi chút nguyên lý và cách làm của giáo dục tri thức tổng quát, điều này cũng được áp dụng ngay ở các quốc gia phát triển. Nhưng sự gia tăng số lượng sinh viên với sự lựa chọn ít nhất một môn nền tảng của chương trình giáo dục tri thức tổng quát giúp đưa ra những người ưu tú "được dán nhãn", và làm cho nguồn nhân lực quốc gia thêm lớn mạnh. Các trường đại học cần cởi mở hơn trong tuyển chọn đầu vào để bảo đảm rằng những người không được thụ hưởng một nền giáo dục trung học rộng rãi sẽ có cơ hội bắt kịp và bộc lộ hết tiềm năng của mình. Trên tinh thần đó, chương trình nghệ thuật tự do của AKU đang xem xét khả năng của những khóa học có tính chất cầu nối nhằm giúp học sinh trung học từ những tầng lớp nghèo và từ những nước láng giềng có thể vượt qua sự thiếu hụt này.
KẾT LUẬN
Trong việc thực hiện chương trình giáo dục tri thức tổng quát, các nhà hoạch định chính sách và các nhà giáo dục đang phải đương đầu với hàng loạt thử thách. Cũng như việc thiết kế các khóa học sao cho nó đáp ứng được nhu cầu của xã hội, việc cổ vũ cho lợi ích của chương trình giáo dục tri thức tổng quát sẽ cần đến những nỗ lực lâu dài để lôi cuốn sinh viên khỏi cách nghĩ và mục tiêu theo lối truyền thống.
Hứa hẹn của những nỗ lực này là cực kỳ đáng giá. Trong quá khứ, chương trình giáo dục tri thức tổng quát được các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia đang phát triển xem là một thứ xa xỉ và chỉ có ý nghĩa đối với người giàu. Ngày nay nó đã trở thành một thứ tất yếu. Các nhà lãnh đạo với tầm nhìn không bị giới hạn bởi những lợi ích kinh tế ngắn hạn của nền giáo dục quá tập trung vào kỹ thuật chuyên nghiệp sẽ có cơ hội có những đóng góp có ý nghĩa lâu dài và đáng kể trong sự phát triển của đất nước mình.
David E. Bloom and Henry Rosovsky
Harvard University
TS.Phạm Thị Ly dịch
(Nguồn: Liberal Education, Winter 2003, Volume 89, Number 1)