Search

Chất lượng đào tạo sau đại học: những con đường dẫn đến đỉnh cao

Chương trình đào tạo SĐH chính là một chỉ báo về chất lượng của một trường đại học
Chất lượng đào tạo sau đại học: những con đường dẫn đến đỉnh cao

GS William G. Tierney
ĐH Nam California

Đào tạo sau đại học (SĐH) quả là một việc làm đau đầu những người công tác ở các trường đại học cũng như các nhà phân tích chính sách. Một mặt, việc tổ chức đào tạo sau đại học luôn tốn kém hơn đào tạo đại học, và trong một vài lĩnh vực như Hóa học, Vật lý, thì nó còn tốn kém hơn rất nhiều. Thông thường chi phí đào tạo SĐH gia tăng vì hai yếu tố sau đây: số học viên trong lớp thấp nhưng lại đòi hỏi mức đầu tư ngày càng cao, trong đó bao gồm cả chi phí cho đội ngũ giảng viên. Để dạy đại học, giảng viên chỉ cần có bằng cử nhân hoặc thạc sĩ. Nhưng để dạy và hướng dẫn một nghiên cứu sinh thì giảng viên buộc phải có học vị tiến sĩ. Trả lương cho các giáo sư có học vị tiến sĩ thì tốn kém hơn so với những người chỉ có bằng thạc sĩ hoặc cử nhân. Một chương trình SĐH chất lượng cao không thể tồn tại được lâu nếu đội ngũ giảng viên toàn là những giảng viên bán thời gian, hay kiêm nhiệm, nhưng điều này vẫn có thể chấp nhận được đối với một số chương trình đại học.

Nhưng mặt khác, những chương trình đào tạo SĐH chính là một chỉ báo về chất lượng của một trường đại học. Một quốc gia phải gửi sinh viên của nước mình ra nước ngoài để đào tạo SĐH sẽ không thể có nhiều học giả được đào tạo bài bản cho bằng một quốc gia có các chương trình đào tạo tiến sĩ trong nước. Các nhu cầu chuyên môn của một quốc gia tốt nhất là do các trường đại học trong nước đáp ứng. Việc cải tiến các trường đại học cũng có thể diễn ra nhanh hơn nếu đào tạo được nhiều tiến sĩ hơn và điều đó có thể xảy ra nếu trong nước có những chương trình SĐH có chất lượng. Quốc gia nào chỉ có được một vài chương trình SĐH thì quốc gia đó sẽ phải lệ thuộc vào việc đào tạo từ nước ngoài. Quá trình toàn cầu hóa đã dẫn đến tình trạng các quốc gia có nền kinh tế sôi động sẽ luôn đòi hỏi những công dân có trình độ và luôn tự cải thiện mình; điều này cũng có nghĩa là đào tạo SĐH sẽ trở nên cấp bách.

Tuy nhiên, để có thể khởi bắt đầu hoặc duy trì được các chương trình SĐH tốt thì cần có những chỉ báo rõ ràng về chất lượng. Bài viết này nhằm xem xét những vấn đề sau: (a) cần đưa ra những câu hỏi gì để đo lường được chất lượng giáo dục sau đại học, (b) cần những thông tin gì để trả lời những câu hỏi đó, (c) nên sử dụng những thước đo nào để xây dựng thành lời giải đáp, và (d) những thành phần nào nên tham gia vào việc phân tích và đánh giá. Trước hết, vai trò của các nhóm khác nhau sẽ được thảo luận, sau đó các hướng phân tích sẽ được bàn đến. Tiếp đến, những thách thức đối với việc tạo ra những chương trình đào tạo có chất lượng sẽ được xem xét và cuối cùng những thực tiễn tốt nhất sẽ được đưa ra để kết luận bài viết.

Vai trò của các nhóm khác nhau trong đào tạo SĐH

So với đào tạo ở trình độ đại học, đào tạo SĐH cần mối quan hệ qua lại chặt chẽ hơn giữa các thành phần có liên quan. Trong khi đào tạo ở trình độ đại học vai trò của các thành phần có thể không đồng đều, ví dụ giảng viên có thể có vai trò quan trọng hơn, thì ở trình độ SĐH cần tạo được sự phối hợp và hợp tác giữa các nhóm khác nhau dù những nhóm này có thể có những cách diễn giải khác nhau về tầm quan trọng, nội dung, và tiêu điểm của quá trình đào tạo.

Giảng viên và các nhà quản lý

Các giảng viên chịu trách nhiệm về chương trình và giảng dạy sau đại học. Nhìn chung, giảng viên có học vị tiến sĩ thích dạy ở trình độ sau đại học hơn là trình độ đại học. Lớp học ở trình độ SĐH có sĩ số thấp hơn và tập trung hơn vào những quan tâm nghiên cứu của cá nhân hơn là những lớp có sĩ số cao hơn ở trình độ đại học. Đào tạo SĐH cho phép có những sinh viên tham gia vào nghiên cứu để hỗ trợ cho các giảng viên trong những công việc mà họ đang làm – điều mà Cohen và các đồng tác giả (1980) gọi là “sự cộng tác trí tuệ”.

Tuy nhiên, bản chất của kiến thức là luôn thay đổi và kết quả là các giảng viên cần được chuẩn bị tốt hơn và hiểu biết rõ hơn về những gì đang diễn ra trong một lĩnh vực chuyên môn nào đó hơn là ở trình độ đại học. Nhận định này càng chính xác hơn trong thế kỷ 21 khi việc nghiên cứu tách biệt từng lĩnh vực riêng biệt không còn phù hợp, vì nghiên cứu ngày càng đi theo hướng liên ngành. Các giảng viên về phần mình cũng cần xác định rõ là họ cần có những hỗ trợ nào để đảm bảo có đủ cơ sở hạ tầng nhằm phát triển những chương trình đào tạo có chất lượng.

Cơ chế quản lý cũng cần phải phù hợp với yêu cầu hỗ trợ nghiên cứu. Cơ chế này hoàn toàn khác với một cơ chế quản lý hiệu quả cho việc hỗ trợ chất lượng dạy và học. Một cơ sở hạ tầng nghiên cứu đòi hỏi trường đại học phải sẵn sàng tìm kiếm ngân quỹ từ nhiều nguồn khác nhau chứ không chỉ theo cách mà các trường chỉ đào tạo ở trình độ đại học thường làm. Cơ chế ngân sách để thúc đẩy tính liên ngành cũng hoàn toàn khác với cơ chế ngân sách chỉ dành riêng cho một cá nhân hay một khoa. Các trường đại học thường không tổ chức đào tạo ở trình độ SĐH tất cả mọi chương trình mà họ đào tạo ở trình độ đại học, vì vậy có khả năng là các học viên SĐH có thể đến từ một vùng địa lý nào đó nhiều hơn số người học ở trình độ đại học. Nếu chương trình đạt được chất lượng đáng kể, lúc đó sẽ có cả sinh viên từ nước ngoài đến học sau đại học. Kết quả là đào tạo sau đại học cần phải có những quy trình tốn kém đáng kể về nguồn lực và thủ tục cụ thể để tạo điều kiện nhận học viên vào học.

Điểm cuối cùng là các giảng viên cùng và các nhà quản lý phải phát triển những phương cách hữu hiệu để phân tích chất lượng của các chương trình đào tạo. Chương trình cần được đánh giá bao lâu một lần? Ai sẽ là người đánh giá? Những chương trình kém chất lượng sẽ phải xử lý ra sao? Chúng ta sẽ quay lại những câu hỏi này trong phần dưới đây, nhưng đó là những câu hỏi then chốt của vai trò giảng viên và nhà quản lý.

Các nhà hoạch định chính sách và nhà nước

Các trường công được lập ra để đáp ứng những nhu cầu của nhà nước cũng như những ưu tiên mà các nhà hoạch định chính sách và các bộ ngành đưa ra. Nếu không kể đến nước Mỹ, phần lớn việc nghiên cứu và đào tạo sau đại học đều được thực hiện ở các trường công lập. Kết quả là giảng viên và nhà quản lý sẽ không thể quyết định đưa ra chương trình này hay chương trình khác nếu không nhận được sự hỗ trợ đáng kể từ các cơ quan nhà nước, ví dụ như như Bộ Đại học chẳng hạn.

Nếu đào tạo sau đại học là ưu tiên cấp quốc gia, thì ngân sách cho nghiên cứu, cơ sở hạ tầng, và trợ giúp về tài chính cũng sẽ phải phản ánh điều này. Chiến lược này sẽ mang lại nhiều lợi ích, nhưng cũng sẽ có những rủi ro hiển nhiên. Nghiên cứu vốn không có đầu ra chắc chắn hay cụ thể nào cả, vì bản chất của nghiên cứu luôn có tính rủi ro. Sẽ có những dự án nghiên cứu thành công và cũng có những dự án không thành công. Tương tự, học viên sau đại học cũng không thể chắc chắn là mình sẽ xuất sắc trong nghiên cứu. Tuy nhiên, những lĩnh vực nghiên cứu mới mẻ càng cần đến tính sáng tạo và chấp nhận rủi ro nhiều hơn, và vai trò của nhà nước là phải khuyến khích điều này. Kết quả để hỗ trợ đào tạo SĐH thì các nhà quản lý sẽ phải làm những điều trái ngược hẳn với suy nghĩ thông thường của những đơn vị mang tính hành chính. Các tiểu bang cũng có ảnh hưởng đến việc những học viên như thế nào được nhận vào học trong các trường đại học. Quan sát này cho thấy là các tiểu bang có khả năng điều phối các nguồn lực dành cho những nhóm bị thiệt thòi, chẳng hạn như phụ nữ trong các ngành khoa học hoặc các dân tộc thiểu số. Tương tự, các tiểu bang quyền quyết định là khuyến khích hay cản trở các sinh viên nước ngoài đến học sau đại học ở tiểu bang. Những người đạt được bằng sau đại học ở nước ngoài chính là những tiềm năng lớn cho đất nước ấy. Tuy nhiên, tiềm năng này sẽ mất nếu những sinh viên vốn là những người xuất sắc trong lĩnh vực của họ không có cách nào để có quyền cư trú dài hạn.

Nhiều lĩnh vực đào tạo sẽ có sự tương tác chặt chẽ với thương mại và công nghiệp, và tiểu bang cần phát triển những chính sách để những trao đổi giữa các bên có kết quả tốt. Cũng vậy, ngay cả khi có sự hỗ trợ của công ty hay một trường đại học thì những tương tác này cũng không nhất thiết tạo ra được các mối quan hệ có tính hệ thống. Chính các tiểu bang mới khả năng cũng như trách nhiệm để tạo ra những quan hệ như vậy.

Thương mại và công nghiệp

Có lẽ những ai làm việc trong lĩnh vực thương mại và công nghiệp đều nhận thức rõ về những lợi ích của một lực lượng lao động có học thức và những nhu cầu việc làm của tương lai. Vì vậy, rất cần thiết có sự ủng hộ tích cực cũng như những mô tả rõ ràng về nhu cầu đào tạo SĐH từ các nhà lãnh đạo thương mại và công nghiệp. Ở một vài quốc gia, chẳng hạn như ở Mỹ, nơi các trường đại học áp dụng mô hình ngân quỹ đa dạng, các vị lãnh đạo này cũng ủng hộ về tài chính để xây dựng các tòa nhà, cơ sở hạ tầng, và hỗ trợ sinh viên sau đại học.

Tuy nhiên, những trường đại học mạnh nhất về khoa học, công nghệ, kỹ thuật, và toán học lại không phải là những trường đại học am tường về việc chuyển giao công nghệ. Vì vậy, cần có một mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa thương mại và công nghiệp sao cho tài sản trí tuệ của những người có những phát minh được bảo vệ, nhưng đồng thời cũng cho phép những ý tưởng đó được đưa ra thị trường, vì điều này có tiềm năng mang lại lợi ích cho xã hội nhiều hơn. Thương mại và công nghiệp cũng có khả năng hỗ trợ việc thực tập, học bổng làm việc, và các dạng việc làm khác để thúc đẩy những ý tưởng có liên quan đến đào tạo sau đại học. Những nhóm sẵn sàng nhất trong việc chấp nhận rủi ro để chuẩn bị cho các cá nhân làm việc trong một nền kinh tế toàn cầu chính là những người đang lãnh đạo các ngành kinh doanh và công nghiệp đang tham gia cạnh tranh trong những công ty và ngành kinh doanh chủ yếu dựa vào tri thức.

Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng

Để tìm hiểu về chất lượng đào tạo sau đại học thì sẽ có nhiều điều có ảnh hưởng gián tiếp đến chất lượng cần phải tìm hiểu, chẳng hạn như kinh phí. Tuy nhiên, ở đây tôi chỉ xem xét ba thành phần quan trọng nhất, vì nếu không phân tích những yếu tố này thì hoàn toàn không thể xác định được một chương trình đào tạo sau đại học nào đó là có chất lượng hay không.

Năng suất của giảng viên

Những người có tác động chính về chất lượng của một chương trình sau đại học chính là các giảng viên. Họ dạy sinh viên, hướng dẫn nghiên cứu, và giám sát chương trình học. Vậy làm sao có thể đánh giá chất lượng của đội ngũ giảng viên? Tất nhiên, có những cách đo danh tiếng của giảng viên như các giải thưởng hoặc những huy chương mà một giảng viên đã đạt được. Nói chung, danh tiếng của giảng viên tùy thuộc vào kết quả nghiên cứu của người đó, tùy thuộc vào kinh phí được cấp từ bên ngoài, và chất lượng hay uy tín của tạp chí chuyên ngành nơi họ đăng bài nghiên cứu. Số lần công trình nghiên cứu của họ được trích dẫn và ảnh hưởng của công trình đó trong lĩnh vực nghiên cứu cũng đóng vai trò quan trọng.

Những số liệu cộng gộp các đặc điểm nêu trên có thể giải thích được một phần chất lượng của chương trình. Một khoa đào tạo có được một vị giáo sư có thâm niên, được mọi người kính trọng, và có các nghiên cứu có chỉ số trích dẫn sẽ không được xem là có tác động nhiều cho bằng một khoa có nhiều giảng viên trong đó mỗi người không có chỉ số trích dẫn cao nhưng khi tính tỉ lệ trích dẫn chung của cả khoa thì lại cao hơn. Trong khi xây dựng các chương trình đào tạo, chúng tôi thường xuyen nhận thấy rằng có nhiều giảng viên có bằng tiến sĩ nhưng không nghiên cứu và bằng cấp của họ là từ các trường đại học hạng hai. Số lượng giảng viên tốt nghiệp tiến sĩ từ các trường đại học tốp đầu có thể được xem là một yếu tố khác nữa để cho biết chất lượng của một chương trình. Thực ra, cần xem xét số lượng giảng viên toàn thời gian trong một chương trình và phần trăm giảng viên sau đại học có tham gia giảng dạy và hướng dẫn luận văn. Mặc dù đối với một số ngành, kinh phí từ bên ngoài không đóng vài trò quan trọng, nhưng trong nhiều ngành khác, đây chính là chỉ số về uy tín. Hơn nữa, nhìn chung, một cá nhân hay một khoa đào tạo càng được thế giới biết đến thì càng chứng tỏ đó là chương trình có chất lượng.

Năng suất của sinh viên

Chất lượng sinh viên về bản chất cũng khá giống với năng suất của giảng viên. Nơi sinh viên đã học trước khi theo học SĐH sẽ có ảnh hưởng đến việc họ sẽ chọn nơi nào để học. Rõ ràng là một sinh viên đã học ở một trường đại học hạng hai hay hạng ba và sau đó làm công việc thu ngân ở một cửa hàng tạp hóa thì không gây được ấn tượng bằng sinh viên đã học ở một trường đại học tốt nhất trong nước và có được một công việc danh giá ngay sau khi tốt nghiệp. Nếu sinh viên đã tích lũy được những giải thưởng cho công việc hay luận án của họ, thì điều này cũng sẽ được xem xét như một chỉ báo về chất lượng của sinh viên, Ngoài ra, ngày càng có xu hướng là sinh viên cũng phải có những công trình nghiên cứu được ấn bản trong lĩnh vực nào đó, và trong những tạp chí có liên quan. Họ cũng cần bằng chứng cho việc công bố công trình nghiên cứu của mình tại các hội nghị và bằng chứng cho thấy khả năng giảng dạy và tự nghiên cứu mà không cần sự hỗ trợ của người hướng dẫn.

Điểm quan trọng nhất có liên quan đến việc sinh viên tốt nghiệp có thể làm việc ở đâu. Chương trình đào tạo sau đại học nhắm đến việc cải tiến chất lượng sẽ thấy những sinh viên của mình thường xuyên được nhận vào những vị trí nghiên cứu ở các trường đại học hàng đầu và/ hoặc ở những công ty và ngành công nghiệp tốt nhất. Bởi, làm sao một chương trình đào tạo lại có thể tự cho là có chất lượng khi những sinh viên họ đào tạo ra lại không nắm được những vị trí nghề nghiệp danh giá? Suy cho cùng, mục đích của đào tạo sau đại học chính là đào tạo được các học viên sau đại học. Một nền giáo dục có chất lượng hẳn phải tạo ra những học viên tự học hỏi được nhiều hơn là những gì mà giáo sư của họ đã trình bày. Một học viên sau đại học thành công là một người có thể chứng tỏ được điều mình đã học thông qua vị trí mà mình phụ trách sau khi hoàn thành học vị Tiến sĩ của mình. Một câu hỏi dài hạn hơn cần được xem xét là trong vòng 5, 7 năm sau khi nhận được học vị tiến sĩ thì một học viên tốt nghiệp một chương trình cụ thể nào đó sẽ làm được những gì. Có thể giả định rằng những người tốt nghiệp thành công từ những chương trình đào tạo thành công hẳn sẽ phải bắt đầu tạo ra danh tiếng cho chương trình mình đã theo học thông qua các chỉ số liên quan đến chất lượng giảng viên mà tôi đã thảo luận ở trên.

Đặc điểm của quá trình đào tạo

Một cách nhìn tương đối mới về một chất lượng của một chương trình đào tạo là không chỉ nhìn vào những số đo kết quả cuối cùng – chẳng hạn như có bao nhiêu học viên tốt nghiệp được nhận vào những vị trí danh giá, có bao nhiêu giảng viên là thành viên của những tổ chức quốc tế quan trọng, đại loại như thế – mà còn phải xem xét đánh giá những yếu tố mang tính phát triển của quá trình đào tạo nữa. Cụ thể, người ta sẽ xem xét những tương tác giữa học viên với nhau cũng như giữa học viên và giáo sư. Học viên sẽ ít có khả năng thành công nếu họ không có những liên hệ với sinh viên khác và/ hoặc nếu họ ít nhận được lời hướng dẫn từ các giảng viên. Những hỗ trợ mang tính hệ thống mà chương trình đào tạo cung cấp cũng là vấn đề cần xem xét. Học viên nào được nhận vào vị trí trợ lý nghiên cứu học được nhiều hơn những học viên không nhận được hỗ trợ hoặc phải làm trợ giảng. Chương trình nào cho phép học viên thực hiện các nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm, truy cập vào những thư viện có chất lượng với những trang thiết bị Internet hiện đại sẽ được xem là một chương trình có giá hơn những chương trình không có được những điều kiện như vậy. Và cuối cùng, học viên nào được học trong những chương trình mới, có tính tương tác và hợp tác trong nhóm cao hơn những chương trình chỉ đơn thuần sử dụng những phương pháp giảng dạy cách đây một thế hệ sẽ có khả năng thành công trong chương trình được xem là đạt chất lượng cao.

Những thách thức trong việc tạo ra và duy trì chất lượng

Chúng ta đã nói lướt qua về ba yếu tố có tác động bao trùm trong việc phân tích chất lượng. Rõ ràng là các biện pháp tổng hợp và phân tích đều có những chỉ báo riêng biệt cho phép phát triển hoặc cản trở một chương trình có chất lượng. Nếu cần điều tra chất lượng của một chương trình, thì chúng ta cần biết có với những thách thức nào đối với việc tạo ra chất lượng. Cụ thể, chúng ta sẽ xem xét tám (8) thách thức sau đây.

1. Kinh phí cho chương trình

Một chương trình chỉ nhận được những hỗ trợ tài chính ít ỏi từ phía nhà trường, chính phủ, và các ngành công nghiệp sẽ gặp khó khăn trong việc hỗ trợ đội ngũ giảng viên và sinh viên. Ví dụ, giảng viên và sinh viên cần tham dự các hội nghị trong nước, trong khu vực, và quốc tế. Giảng viên thuộc các ngành khoa học tự nhiên cần cơ sở hạ tầng đầy đủ để thực hiện các thí nghiệm. Giảng viên và sinh viên cũng cần có văn phòng làm việc được trang bị các thiết bị công nghệ điện tử để giúp họ tiến hành nghiên cứu, và cộng tác với đồng nghiệp trong cùng trường cũng như cộng tác với các cá nhân khác trên toàn thế giới. Lớp học cần được trang bị công nghệ hiện đại nhất để giúp cải tiến việc học và nâng cao phương pháp tương tác giữa các cá nhân với nhau.

2. Kinh phí hỗ trợ học viên

Học viên SĐH có hàng vạn cách khác nhau để trang trải chi phí việc học của mình, và kết quả của chúng cũng khác nhau. Một khả năng có thể xảy ra là cá nhân người học tự trang trải chi phí học tập của mình, hoặc đi vay và trả sau. Khả năng thứ hai là học viên làm việc bán thời gian hoặc làm một công việc bất kỳ trong trường không liên quan đến lĩnh vực mình đang theo học, nhưng mang lại thu nhập cho học viên đó. Một khả năng cũng gần tương tự là học viên đi học bán thời gian và đi làm toàn thời gian hoặc bán thời gian. Công việc trợ giảng cũng giúp học viên học được cách giảng dạy, và những công việc ở văn phòng Khoa giúp họ học thêm các kỹ năng. Tuy nhiên, khả năng tốt nhất cho các học viên là được thực tập nghiên cứu cho phép họ được làm việc với một giảng viên, hoặc được tập sự trong lĩnh vực chuyên ngành để giúp họ có những kinh nghiệm thực tế.

Hỗ trợ tài chính cho sinh viên là việc làm rất quan trọng. Rõ ràng là có nhiều cách để trang trải chi phí học tập sau đại học. Nhưng nếu điều quan trọng nhất là học viên có được kinh nghiệm học tập tối đa, thì các học viên cần có những việc làm liên quan đến lĩnh vực học tập của mình nói chung, và liên quan đến luận án của mình nói riêng. Chỉ báo đầu tiên về chất lượng của một chương trình là sự quan tâm của đội ngũ giảng viên và các nhà quản lý đối với chất lượng của kinh nghiệm học tập của học viên, và những nguồn hỗ trợ tài chính mà học viên có thể được cung cấp từ chương trình nhằm giúp họ trang trải chi phí học tập.

3. Tỷ lệ hoàn tất khóa học và thời gian tốt nghiệp

Rõ ràng là nếu một học viên không hoàn tất được khóa học thì bất kỳ chỉ số nào về sự thành công của học viên đó đều không có giá trị. Các học viên tiềm năng thường chú ý xem xét tỷ lệ hoàn tất khóa học của học viên những khóa, và đây là một chỉ báo giúp họ quyết định xem có nên theo học chương trình này hay không. Sự tốn kém của việc học tập ở trình độ sau đại buộc các giảng viên và bộ phận quản lý có những đánh giá để chọn được những học viên đủ năng lực để hoàn thành chương trình học. Nếu nhận vào một học viên yếu và ít có khả năng hoàn thành chương trình học, thì sự đầu tư sẽ rất dễ trở thành một sự lãng phí về tiền bạc. Do đó, nếu học viên không hoàn tất được khóa học thì hoặc là các giảng viên của chương trình cần xem lại việc tuyển sinh có chọn được các học viên phù hợp hay không, hoặc chương trình có cung cấp những hỗ trợ cần thiết để trong việc học của họ hay không.

Một thách thức có liên quan là thời gian mà một học viên cần dành ra để hoàn tất chương trình học và được nhận bằng. Chỉ dựa vào việc học viên nhận được bằng thì chưa có cơ sở để phán đoán về hiệu quả và chất lượng của chương trình, mà còn cần đưa ra câu hỏi là học viên cần bao nhiêu thời gian để tốt nghiệp. Nếu hai chương trình có cùng một kết quả, nhưng một chương trình mất gấp đôi thời gian để đào tạo và huấn luyện học viên, thì điều này cho thấy là quá trình đào tạo của một chương trình tốt hơn quy trình của chương trình kia. Giảng viên của những chương trình khác nhau sẽ có những yêu cầu khác nhau về những gì học viên cần phải học trước khi sẵn sàng viết và bảo vệ luận văn. Ví dụ, sinh viên của những ngành nhân văn thường phải mất nhiều thời gian hơn là những sinh viên ngành kỹ thuật hoặc giáo dục. Tuy nhiên, khi các chương trình tương tự được so sánh với nhau, nhất thiết phải đặt câu hỏi là tại sao chương trình này lại kéo dài và tốn nhiều nguồn lực hơn là chương trình kia, nếu cả hai chương trình có cùng một kết quả như nhau.

4. Tuyển sinh và chọn lựa học viên

Nếu chất lượng học viên là một biến số đầu vào của chương trình, khả năng tuyển được những học viên có khả năng hoàn tất chương trình học đúng hạn là một thách thức, thì việc tuyển sinh và chọn học viên vào chương trình là điều thực sự quan trọng. Cần nhắc lại rằng một chương trình có chất lượng thường có khả năng thu hút học viên trên toàn thế giới nói chung, và cụ thể hơn là những học viên đã tốt nghiệp từ các trường đại học khác hơn là từ trường sở tại. Nếu học viên từ các trường đại học khác không hề biết gì về chương trình này, thì họ sẽ không nộp đơn vào học, do đó công việc của người quản lý là lập ra các văn phòng tuyển sinh để làm cho các học viên tiềm năng biết đến chương trình này.

Tương tự, một chương trình đào tạo chất lượng cao sẽ có những tiêu chí cụ thể để dựa vào đó mà Khoa quyết định nhận sinh viên. Những tiêu chí đó có thể là điểm số của một kỳ thi chẳng hạn như là điểm GRE, bảng điểm đại học từ những trường được xếp hạng cao, và một bài luận hay lá thư tự giới thiệu cho thấy sự nghiêm túc cũng như năng lực theo học chương trình sau đại học của học viên đó. Hồ sơ xin học của học viên cũng cần xem xét kỹ. Ở một vài quốc gia, người ta đang nỗ lực tăng số lượng học viên nữ trong các ngành khoa học. Những người được giao nhiệm vụ khuyến khích một đối tượng cụ thể nào đó nộp đơn, hoặc thậm chí nhắm đến việc tuyển vào học, chính là những nhân viên làm trong bộ phận tuyển sinh.

5. Hồ sơ của học viên

Bất kỳ quốc gia nào cũng có những cá nhân có nhiều khả năng theo học chương trình sau đại học hơn những người khác do thành phần xuất thân của họ. Ví dụ như ở Mỹ, sinh viên da trắng thì có nhiều khả năng theo học sau đại học hơn là sinh viên người Mỹ gốc Phi (Perna, 2004). Ở Úc, những người Úc gốc thổ dân thường ít học sau đại học hơn nhiều so với những người Úc gốc Âu. Nhiều nước lại có những dân tộc hay chủng tộc người thiểu số mà vì lý do này hay lý do khác đã không vào được đại học, và kết quả là họ cũng không được học sau đại học.

Những điều vừa nêu cũng đúng với những đặc điểm khác của học viên, chẳng hạn như về giới tính, tầng lớp giai cấp, tình trạng khuyết tật, và đại loại như thế. Một thách thức cho bất kỳ quốc gia nào tìm kiếm sự công bằng và đảm bảo rằng tất cả mọi công dân đều có quyền được học như nhau, đó là phải tìm ra một tỉ lệ học viên hợp lý để những người nghèo, người dân tộc hay giống người thiểu số, và phụ nữ không bị thiệt thòi hoặc tệ hơn nữa là bị phân biệt đối xử. Đây là điều quan trọng vì trong nền kinh tế toàn cầu dường như những quốc gia có tiềm năng lớn nhất này là những quốc gia mà nơi đó không có một nhóm người nào bị cản trở trong việc theo học sau đại học.

6. Giáo dục và đào tạo

Có hai phương pháp sư phạm đang được dùng trong suốt một thế kỷ nay. Phương pháp thứ nhất là một giáo sư nổi tiếng thuyết giảng cho các lớp học có sĩ số đông. Cách thứ hai là tổ chức các buổi trao đổi cho một nhóm nhỏ học viên tương tác với một vị giáo sư về một đề tài cụ thể nào đó. Tuy nhiên, những tiến bộ về công nghệ cho phép chúng ta tiến gần đến một cuộc cách mạng về phương pháp sư phạm. Chẳng bao lâu nữa, người học sẽ được học trong một thế giới ảo và tương tác với nhau bằng nhiều cách mà mới cách đây chỉ một thập niên người ta chưa mường tượng ra được, và điều này sẽ sớm đem lại thay đổi căn bản cách giảng dạy của các giáo sư.

Mặt khác, đào tạo sau đại học lệ thuộc rất nhiều vào khả năng của giảng viên trong việc hướng dẫn cho học viên những truyền thống và nguyên tắc của các ngành khoa học mà họ đang theo đuổi. Những tương tác với học viên là loại lao động có cường độ cao và đòi hỏi ở giảng viên rất nhiều chứ không chỉ đơn thuần chào hỏi xã giao với các học viên sau đại học. Cho đến nay, hướng dẫn nghiên cứu sinh vẫn được xem là một hoạt động nghề dạy nghề, và người ta tin rằng không ai có thể dạy được cho người khác biết cách hướng dẫn học viên. Tuy nhiên, chúng ta biết rằng vẫn có những người hướng dẫn tốt hơn những người khác, và các học viên khác nhau sẽ có những nhu cầu khác nhau. Hướng dẫn là một hoạt động đa chiều đòi hỏi nhiều kỹ năng mà từng cá nhân giảng viên có thể học được. Thách thức ở đây là khuyến khích các giảng viên học các kỹ năng ấy và có thời gian cũng như nhận được sự hỗ trợ về mặt hành chính để phát triển một chương trình đào tạo kỹ năng hướng dẫn cho các giảng viên.

  • Chia sẻ

Bài viết trước

Đào tạo theo tín chỉ ở Mỹ

Bài tiếp tiếp theo

Đạo văn trong nghiên cứu